Bài viết sau đây được Tài liệu nghiên cứu giới thiệu về Phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại

1 Khái niệm phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm khách hàng cá nhân

Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến triển theo hướng tăng lên, ví dụ phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, phát triển xã hội (Nguyễn Như Ý, 1999). Phát triển là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng đồng dân tộc trong đó các chủ thể lãnh đạo và quản lý, bằng các chiến lược và chính sách thích hợp với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của xã hội và cộng đồng dân tộc mình, tạo ra, huy động và quản lý các nguồn lực tự nhiên và con người nhằm đạt được những thành quả bền vững và được phân phối công bằng cho các thành viên trong xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ (Bùi Đình Thanh, 2015).

Theo Gerard Crellet (2000), “phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản”. Ở đây, phát triển được xem là một quá trình và một xã hội được coi là phát triển khi xã hội đó thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Định nghĩa này không chỉ bao hàm nội dung kinh tế mà còn có nội dung xã hội (Phan Thị Linh, 2015). Phát triển không chỉ đơn thuần tăng lên hay giảm đi về lượng mà còn có sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng (Nguyễn Thị Hồng Vân, 2016). Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. Như vậy hiểu một cách đơn giản nhất thì phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng (Phạm Anh Thủy, 2013).

Từ những quan điểm về phát triển, phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm KHCN được hiểu là mở rộng dịch vụ tiền gửi tiết kiệm KHCN theo chiều rộng và chiều sâu. Nghĩa là, phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm KHCN về số lượng và chất lượng theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

Quan điểm phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm KHCN theo chiều rộng: việc phát triển theo quan điểm này giúp các NHTM đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ tiền gửi tiết kiệm KHCN, bao gồm TGTK thông thường, TGTK online, TGTK trả lãi sau, TGTK trả lãi trước, TGTK trả lãi định kỳ, trả lãi tự động… Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ TGTK KHCN giúp các NHTM đa dạng hoá cơ cấu thu nhập và giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong và ngoài nước, hệ thống NHTM tại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng và đa dạng hóa các sản phẩm, loại hình dịch vụ TGTK và các kỳ hạn trả lãi linh hoạt.

Theo góc độ phát triển dịch vụ TGTK theo chiều sâu: nghĩa là việc các NHTM phát triển dịch vụ TGTK KHCN bằng cách gia tăng các tiện ích và nâng cao chất lượng dịch vụ TGTK KHCN hiện có nhằm gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng (Phạm
Anh Thủy, 2013). Theo đó, chất lượng dịch vụ là một khái niệm rất quan trọng trong quá trình xây dựng hình ảnh và thương hiệu của ngân hàng. Đây là một yếu tố quan trọng và có ảnh hướng lớn đến sức cạnh tranh và sự phát triển của ngân hàng. Nhiều nhà nghiên cứu đồng tình rằng chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của khách hàng và lòng trung thành của khách hàng là khác biệt, nhưng những vấn đề này có liên quan chặt chẽ với nhau.

2 Vai trò của phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm khách hàng cá nhân

2.1  Đối với ngân hàng thương mại

Dịch vụ TGTK KHCN sẽ là nguồn lực giúp cho hoạt động đầu tư, cho vay của các NHTM hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao cho các NHTM do sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Nói cách khác, hoạt động này đã và đang không ngừng giúp các NHTM bổ sung thêm nguồn vốn cho vay (Nguyễn Thị Mùi và cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2014).

Với vai trò là kênh phân phối vốn cho nền kinh tế, sự phát triển dịch vụ TGTK KHCN sẽ giúp các NHTM là kênh huy động và phân phối hàng đầu, phân phối lại phần lớn nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế.

Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng phải được đào tạo về các kỹ năng mềm, như giao tiếp, kỹ năng marketing và thuyết phục khách hàng. Chính vì vậy, để phát triển dịch vụ TGTK KHCN mới và mở rộng thị trường cạnh tranh, các ngân hàng phải ngày càng nâng cao tiêu chuẩn tuyển dụng và luôn quan tâm đào tạo lại cán bộ thường xuyên, liên tục nhằm tạo một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, nghiệp vụ giỏi, giao tiếp giỏi và phục vụ khách hàng tốt nhất.

Các sản phẩm dịch vụ TGTK KHCN ngày càng phong phú và đáp ứng nhu cầu đa dạng đối với nhiều đối tượng khách hàng và qua đó các ngân hàng cần tạo tên tuổi, uy tín tạo dấu ấn trong lòng khách hàng để khách hàng cảm thấy an tâm và đáng tin cậy. Thương hiệu phải đi cùng với chất lượng dịch vụ nên các ngân hàng cần phải khảo sát để nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường, và thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ TGTK của các NHTM (Nguyễn Thị Mùi và cộng sự, 2016; Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2014).

Phát triển dịch vụ TGTK KHCN là phù hợp với xu thế phát triển của ngành ngân hàng. Các NHTM chủ yếu đẩy mạnh cũng như chuyển dịch cơ cấu hoạt động từ bán buôn sang bán lẻ để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.

Dịch vụ TGTK KHCN giúp các ngân hàng có sự hợp tác và gắn kết với nhau trong việc cung cấp dịch vụ tiền gửi cho khách hàng. Các dịch vụ này phải đảm bảo tính thuận tiện cho khách hàng trong giao dịch như gửi tiền tiết kiệm ở một nơi nhưng khách hàng có thể rút ở nhiều nơi, thậm chí có thể rút tiền ngoài hệ thống ngân hàng. Để làm được điều này, các ngân hàng đã có sự hợp tác cùng phát triển như tạo thành các thành viên liên minh thẻ, các thành viên trong thanh toán bù trừ (Nguyễn Thị Mùi và cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2014).

2.2  Đối với khách hàng

Đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng đang ngày một tăng cao của các khách hàng ngày càng trẻ và năng động trong điều kiện nền kinh tế hội nhập và hệ thống ngân hàng là xương sống của nền kinh tế (Nguyễn Thị Mùi và cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2014).

Phát triển dịch vụ TGTK KHCN sẽ hình thành thói quen tích lũy, tiết kiệm, sinh lời đối với người dân trong nền kinh tế, tạo điều kiện để đầu tư và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

Sự phát triển của dịch vụ TGTK KHCN phù hợp với yêu cầu phát triển và vững mạnh trong hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu và chỉ đạo của Chính phủ trong việc xây dựng và mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ, cải thiện đời sống người dân.

Hoạt động kinh doanh hiện nay của các ngân hàng diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh giữa các ngân hàng nước ngoài, mà còn cạnh tranh với định chế phi tài chính, như các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các công ty tài chính… Chính vì vậy, các NHTM cần quan tâm đa dạng hoá và phát triển các sản phẩm dịch vụ TGTK KHCN để đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ mang lại nhiều lợi thế trong cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị phần bán lẻ trong và ngoài nước (Nguyễn Thị Mùi và cộng sự, 2004; Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2014).

3 Các tiêu chí đánh giá phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm khách hàng cá nhân của NHTM

3.1  Phát triển về doanh số và thu nhập

Phát triển về doanh số và thu nhập từ dịch vụ TGTK KHCN là chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời và hiệu quả của nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm từ khách hàng cá nhân tại NHTM.

Theo đó, Thu nhập lãi thuần = Thu nhập lãi từ cho vay – Chi phí lãi huy động từ tiền gửi tiết kiệm.

3.2  Phát triển khách hàng và thị phần

Phát triển khách hàng và thị phần thể hiện cơ cấu nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn, loại tiền và đối tượng khách hàng.

3.3  Phát triển sản phẩm dịch vụ

Phát triển sản phẩm dịch vụ thể hiện cơ cấu nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn, loại tiền gửi.

3.4  Phát triển kênh phân phối

Phát triển kênh phân phối thể hiện việc huy động tiền gửi tiết kiệm KHCN theo hình thức truyền thống và online.

Bài viết Phát triển dịch vụ tiền gửi tiết kiệm khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại. Qua bài viết hy vọng mang tới những kiến thức hữu ích nhất cho bạn đọc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *